Tổng quan pháp luật về quyền xử lý tài sản bảo đảm của TCTD
thoibaonganhang.vn
Tín dụng ngân hàng luôn là một kênh cung cấp nguồn vốn tín dụng quan trọng cho DN và nền kinh tế. Do đó, việc đảm bảo các giải pháp tăng cường hiệu quả của các nguồn vốn tín dụng ngân hàng là rất cần thiết.
Đối với hoạt
động tín dụng ngân hàng, việc bảo đảm nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản bảo
đảm (TSBĐ) là một biện pháp quan trọng để giảm thiểu rủi ro cho ngân
hàng, đảm bảo cho ngân hàng có thể thu hồi một phần hoặc toàn bộ gốc và
lãi khi khách hàng không trả được nợ, hạn chế thấp nhất nợ xấu, đảm bảo
vốn tiếp tục quay vòng trong nền kinh tế.
Để sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài
sản hiệu quả, quyền xử lý TSBĐ của TCTD với vai trò là bên nhận thế chấp
đồng thời là bên cho vay là một trong những quyền năng cần được pháp
luật ghi nhận và quy định một cách rõ ràng, đầy đủ, và phải đảm bảo
quyền này có thể thực hiện trên thực tế.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
xin được trình bày tổng quan về quyền xử lý TSBĐ của TCTD dưới khía cạnh
pháp lý, trong đó tập trung vào thực trạng pháp luật về quyền xử lý
TSBĐ của TCTD, đưa ra một số đánh giá và kiến nghị xử lý các bất cập để
góp phần hỗ trợ TCTD thực thi quyền xử lý TSBĐ một cách hiệu quả.
1. Thực trạng pháp luật về quyền xử lý TSBĐ của TCTD qua các thời kỳ
1.1. Các mốc thời gian có sự thay đổi lớn về quyền xử lý TSBĐ của TCTD
1.1.1. Từ năm 1999 đến trước khi Nghị
định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm được ban hành (trước ngày
29/12/2006), pháp luật về giao dịch bảo đảm được chia làm hai nhóm:
(i) Quy định về giao dịch bảo đảm áp
dụng cho các tổ chức, cá nhân không phải là các TCTD (Nghị định
165/1999/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm ngày 19/11/1999);
(ii) Quy định về bảo đảm tiền vay của
TCTD (Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Nghị định 85/2002/NĐ-CP). Đồng thời,
việc xử lý TSBĐ để thu hồi nợ vay của TCTD được hướng dẫn cụ thể tại
Thông tư liên tịch 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày 28/4/2001
giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng
cục địa chính và Thông tư liên tịch 02/2002/TTLT-NHNN-BTP ngày
05/02/2002 giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện Quyết
định số 149/2001/QĐ-TTg ngày 05/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ về thủ
tục bán tài sản bảo đảm, công chứng, chứng thực văn bản bán tài sản và
giao tài sản cho các ngân hàng thương mại theo bản án, quyết định của
tòa án.
Như vậy, ở giai đoạn này, do tính chất
đặc thù của hoạt động cho vay của các TCTD, pháp luật có các quy định
riêng để TCTD có thể thực thi quyền năng của bên nhận bảo đảm một cách
hiệu quả.
1.1.2. Ngày 29/12/2006, Nghị định
163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm được ban hành đã thay thế
165/1999/NĐ-CP và Nghị định 178/1999/NĐ-CP, Nghị định 85/2002/NĐ-CP.
Như vậy, giai đoạn này, hệ thống pháp
luật đã thống nhất điều chỉnh chung quan hệ giao dịch bảo đảm của mọi
chủ thể. Vì vậy, quyền xử lý TSBĐ, sự hỗ trợ của cơ quan công quyền
trong hoạt động xử lý TSBĐ của TCTD và các chủ thể nhận thế chấp khác là
giống nhau.
1.1.3. Quá trình triển khai thực hiện
Nghị định 163 cho thấy một số bất cập nảy sinh ảnh hưởng đến quyền xử lý
tài sản bảo đảm của TCTD, vì vậy, ngày 22/02/2012, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 11/2012/NĐ-CP trong đó, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định
về xử lý TSBĐ. Tiếp đó để hướng dẫn chi tiết việc xử lý tài sản bảo của
bên nhận thế chấp, ngày 06/06/2014, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi
trường và Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số
16/2014/TTLT/BTP-BTNMT-NHNN.
Đây là giai đoạn các quy định pháp luật
về giao dịch bảo đảm được ban hành khá đầy đủ, gồm cả các hướng dẫn chi
tiết về xử lý tài sản bảo đảm.
1.1.4. Bộ luật Dân sự 2015 sẽ có hiệu
lực từ ngày 01/01/2017. Theo đó, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định mới về
giao dịch bảo đảm thay thế Nghị định 163, Nghị định 11, Thông tư liên
tịch số 16.
1.2. Về cơ chế xử lý TSBĐ theo pháp luật hiện hành
Thứ nhất, về quyền xử lý tài sản bảo đảm,
Nghị định 163 (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 11/2012/NĐ-CP) quy định
rõ người xử lý tài sản bảo đảm là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên
nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm
có thỏa thuận khác. Đồng thời, căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong
hợp đồng bảo đảm, người xử lý tài sản bảo đảm có quyền tiến hành xử lý
tài sản bảo đảm mà không cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của
bên bảo đảm.
Thứ hai, về phương thức xử lý TSBĐ,
Nghị định 163 quy định các bên có quyền thỏa thuận phương thức xử lý
TSBĐ theo các phương thức sau: Bán tài sản bảo đảm; Bên nhận bảo đảm
nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của
bên bảo đảm; Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ
người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ và phương thức
“quét” - Phương thức khác do các bên thoả thuận.
Đối với phương thức bán TSBĐ:
Các bên có thể thỏa thuận thực hiện bán đấu giá hoặc bán không qua đấu
giá. Việc bán TSBĐ qua đấu giá thì thực hiện theo pháp luật về bán đấu
giá tài sản. Tuy nhiên, đối với việc bán tài sản không qua đấu giá thì
trên thực tế khi thực hiện quy định tại Nghị định 163 phát sinh vướng
mắc như sau: Trường hợp các bên không thỏa thuận về giá bán TSBĐ tại hợp
đồng bảo đảm thì khi bán TSBĐ sẽ xác định giá bán TSBĐ như thế nào.
Chính vì vậy, TTLT 16 (Điều 10) đã quy
định về cách thức xác định giá bán TSBĐ trong trường hợp này. Theo đó,
ưu tiên ghi nhận thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không thỏa
thuận được giá bán TSBĐ thì ưu tiên bên bảo đảm có quyền chỉ định cơ
quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định giá bán tài sản.
Nếu bên bảo đảm không chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định
giá thì bên nhận bảo đảm có quyền chỉ định cơ quan, tổ chức có chức năng
thẩm định giá để xác định giá bán tài sản.
Trong trường hợp không bán được TSBĐ
theo giá theo định giá của cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá
thì bên nhận bảo đảm được quyền hạ giá bán tài sản. Việc hạ giá bán tài
sản thực hiện liên tục ba (03) lần nhưng mỗi lần hạ giá bán tài sản
không được quá mười phần trăm (10%) giá đã định và phải cách nhau ít
nhất là ba mươi ngày (30) ngày đối với bất động sản và mười lăm (15)
ngày đối với động sản.
Sau ba (03) lần liên tục hạ giá mà vẫn
không bán được tài sản bảo đảm thì bên nhận bảo đảm được nhận chính tài
sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ. Giá trị tài sản bảo
đảm trong trường hợp này là mức giá của lần hạ giá cuối cùng, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Đối với phương thức nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm: Để
hướng dẫn cụ thể hơn về việc xử lý tài sản bảo đảm theo phương thức
nhận chính tài sản bảo đảm thay cho việc thực hiện nghĩa vụ, Nghị định
11/2012/NĐ-CP đã bổ sung quy định khi các bên thỏa thuận về việc nhận
chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên
bảo đảm thì việc xử lý tài sản bảo đảm theo phương thức này được thực
hiện như sau: (i) Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ chức
có chức năng thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị của tài
sản bảo đảm; (ii) Trong trường hợp giá trị của tài sản bảo đảm lớn hơn
giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thanh toán
số tiền chênh lệch đó cho bên bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác; (iii) Bên nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực
hiện nghĩa vụ phải xuất trình văn bản chứng minh quyền được xử lý tài
sản bảo đảm và kết quả xử lý tài sản bảo đảm cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm từ bên
bảo đảm sang bên nhận bảo đảm.
Nghị định 11 không quy định các bên phải
ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng trong trường hợp nhận chính TSBĐ
để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm và về bản chất
việc nhận chính TSBĐ để thay thế việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm
là biện pháp cấn trừ nợ, khác với việc mua bán, chuyển nhượng tài sản,
tuy nhiên, trên thực tế có nhiều cơ quan công chứng, đăng ký quyền sở
hữu, quyền sử dụng tài sản yêu cầu TCTD phải xuất trình hợp đồng mua bán
tài sản với chủ sở hữu tài sản thì mới làm thủ tục công chứng, sang tên
cho TCTD.
Xuất phát từ vướng mắc thực tế này, TTLT
16 đã quy định rõ thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng (đối với
tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng). Theo đó, hợp đồng bảo
đảm hoặc văn bản thỏa thuận khác về việc nhận chính TSBĐ để thay thế
cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm được sử dụng thay thế cho
hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
bảo đảm.
Thứ ba, về quyền thu giữ TSBĐ,
Điều 63 Nghị định 163 quy định: Trong quá trình tiến hành thu giữ tài
sản bảo đảm, nếu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở,
gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật khác thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu Ủy ban nhân
dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài
sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp
dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật
tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo
đảm. Tuy nhiên, quy định này chưa thể hiện rõ cơ chế, cách thức để cơ
quan công an, UBND cấp xã tham gia giữ gìn an ninh, trật tự.
Vì vậy, TTLT 16 (Điều 9) đã quy định
hướng dẫn cơ chế để thực thi quy định này như sau: (1) Trước thời điểm
thu giữ tài sản bảo đảm ít nhất bảy (07) ngày làm việc, người xử lý tài
sản bảo đảm có quyền gửi văn bản thông báo về việc thu giữ tài sản bảo
đảm đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm.
Văn bản phải nêu rõ lý do xử lý, thời gian, địa điểm xử lý, kế hoạch thu
giữ tài sản và tài sản dự định thu giữ. (2) Sau khi nhận được văn bản
của người xử lý tài sản bảo đảm, Ủy ban nhân dân cấp xã phải kịp thời
thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 5 Điều 63 Nghị định số
163/2006/NĐ-CP và Điều 30 Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm
2013 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty
Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam.
Thứ tư, về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, nhà ở:
Bên cạnh quy định tại Nghị định 163 về
phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về phương thức xử
lý và trường hợp xử lý tài sản bảo đảm khi chỉ thế chấp tài sản gắn liền
với đất, mà không thế chấp quyền sử dụng đất, Nghị định 11/2012/NĐ-CP
đã bổ sung thêm quy định về xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất, mà không thế chấp tài
sản gắn liền với đất như sau:
(i) Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền
sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng
đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản gắn
liền với đất được xử lý đồng thời với quyền sử dụng đất, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác. Các bên có quyền tự thỏa thuận hoặc thông qua tổ
chức có chức năng thẩm định giá tài sản để có cơ sở xác định giá trị
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Số tiền thu được từ việc xử
lý tài sản bảo đảm được thanh toán trước cho chủ sở hữu tài sản gắn
liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
(ii) Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền
sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng
đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử
lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục
sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài
sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa
vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển
giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất.
Đồng thời, đối với việc xử lý tài sản
bảo đảm là quyền sử dụng đất, nhà ở, Nghị định 11/2012/NĐ-CP cũng bổ
sung yêu cầu là tổ chức, cá nhân mua tài sản bảo đảm hoặc nhận chính tài
sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm
phải thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp tổ chức, cá
nhân không thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì chỉ được hưởng
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà ở.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện
thủ tục sang tên cho người mua TSBĐ là quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất gặp nhiều khó khăn do bên thế chấp không chịu ký tên vào
văn bản sang tên, chuyển nhượng cho người mua/nhận chuyển nhượng TSBĐ.
Để tháo gỡ nút thắt này, TTLT 16 quy định: “Trong trường
hợp bên bảo đảm không tự nguyện ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chứng
minh việc chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thì bên nhận bảo
đảm được quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu đó nhưng trong hồ sơ đề
nghị chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản phải bổ sung một (01)
bản chính hợp đồng bảo đảm đã được công chứng, chứng thực theo quy định
của pháp luật hoặc một (01) bản sao hợp đồng bảo đảm được Ủy ban nhân
dân cấp xã chứng thực, tổ chức hành nghề công chứng cấp từ bản chính
hoặc văn bản khác chứng minh có thỏa thuận về việc bên nhận bảo đảm được
quyền ký hợp đồng, giấy tờ, tài liệu chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng
tài sản bảo đảm”.
Bên cạnh đó, TTLT 16 cũng quy định việc
chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản được thực hiện đồng thời
với việc xóa đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, không buộc TCTD xóa
đăng ký thế chấp trước khi thực hiện thủ tục sang tên trước bạ, giảm
thiểu rủi ro cho TCTD trước nguy cơ giao dịch có bảo đảm trở thành không
có bảo đảm nếu xóa đăng ký trước khi chuyển nhượng cho người mua nhưng
vì lý do nào đó lại chưa thể sang tên cho người mua.
Bên cạnh đó, TTLT 16 cũng quy định việc
chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản được thực hiện đồng thời
với việc xóa đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo đó, không buộc TCTD xóa
đăng ký thế chấp trước khi thực hiện thủ tục sang tên trước bạ, giảm
thiểu rủi ro cho TCTD trước nguy cơ giao dịch có bảo đảm trở thành không
có bảo đảm nếu xóa đăng ký trước khi chuyển nhượng cho người mua nhưng
vì lý do nào đó lại chưa thể sang tên cho người mua.
Bên cạnh đó, TTLT 16 cũng hướng dẫn việc
xử lý TSBĐ đối với một số loại tài sản đặc thù như: Xử lý đối với tài
sản thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh
do bên thế chấp bán, thay thế tài sản thế chấp không có sự đồng ý của
bên nhận thế chấp trong khi hợp đồng thế chấp đã được đăng ký giao dịch
bảo đảm và giữa bên thế chấp với bên nhận thế chấp có thỏa thuận khi
bán, thay thế tài sản thế chấp phải được sự đồng ý của bên nhận thế
chấp;Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất trong trường hợp hợp đồng thế chấp đã được đăng ký trước
khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi theo quy định của pháp luật;
Xử lý tài sản thế chấp là quyền đòi nợ Yêu cầu hoàn trả tài sản bảo đảm
đang bị cầm giữ trong hợp đồng song vụ để xử lý.
2. Đánh giá pháp luật về quyền xử lý TSBĐ
Thứ nhất, qua các giai đoạn, có thể thấy, quyền xử lý TSBD của TCTD đang dần bị thu hẹp, cụ thể:
a) Quy định tại Nghị định 178 và TTLT 03:
Quyền xử lý TSBĐ của TCTD được quy định
rõ ràng được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước, vì vậy, giai đoạn nàyviệc
xử lý TSBĐ của TCTD để thuhồi nợ hiệu quả hơn. Một trong những quy định
phải kể đến đó là:
Quy định về quyền thu giữ TSBĐ đó là:
Trong trường hợp bên giữ tài sản không giao tài sản theo yêu cầu của
TCTD, TCTD có quyền tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm cùng với sự hỗ trợ
của Uỷ ban nhân dân và cơ quan Công an (Mục XI.2.3 Phần B TTLT 03);
Quyền xử lý TSBĐ trong trường hợp bên
bảo đảm chết hoặc vắng mặt tại nơi cư trú vào thời điểm xử lý TSBĐ: TCTD
được tiến hành xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp đến hạn trả nợ
hoặc phải trả nợ trước hạn mà bên bảo đảm chết hoặc cố ý vắng mặt tại
nơi cư trú vào thời điểm xử lý tài sản đã được TCTD thông báo trước.
Người giữ tài sản bảo đảm (nếu có) hoặc người thừa kế tài sản của của
bên bảo đảm (trong trường hợp bên bảo đảm chết) có nghĩa vụ giao tài sản
cho TCTD để xử lý theo thông báo của TCTD.
Trong trường hợp người giữ tài sản bảo
đảm, người thừa kế tài sản của bên bảo đảm không chịu giao tài sản cho
TCTD để xử lý, TCTD có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp buộc bên giữ tài sản bảo đảm phải giao tài sản bảo
đảm cho TCTD để xử lý theo quy định tại mục XI phần B.
b) Quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP:
Khi Nghị định 163 có hiệu lực, quyền thu
giữ TSBĐ của bên nhận thế chấp đã bị thu hẹp đáng kể. Theo đó, khoản 5
Điều 63 Nghị định 163 chỉ quy định: Trong quá trình tiến hành thu giữ
tài sản bảo đảm, nếu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản
trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật khác thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu UBND cấp xã
và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy
định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý
tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Như vậy, cơ quan công an, UBND cấp xã
chỉ tham gia để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài
sản thực hiện quyền thu giữ TSBĐ mà không tham gia thu hồi TSBĐ cùng
TCTD như quy định tại Nghị định 178 và TTLT 03.
Do đó, những trường hợp bên bảo đảm cố
thủ trong nhà, không làm mất an ninh trật tự thì cơ quan công an, UBND
cấp xã cũng không thể tham gia giữ gìn an ninh, trật tự thì TCTD không
thể thu giữ được TSBĐ. Thậm chí nhiều trường hợp TSBĐ đã được bán đấu
giá, bên trúng đấu giá đã thanh toán xong nhưng không thể bàn giao được
TSBĐ vì vậy, ảnh hưởng đến công tác thu hồi nợ, các chủ thể ngại mua,
nhận chuyển nhượng những TSBĐ được xử lý để thu hồi nợ.
Đối với những trường hợp bên bảo đảm
vắng mặt, cố tình trốn tránh không giao tài sản thì Nghị định 163, TTLT
16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ không
còn quy định về cơ chế thu giữ TSBĐ như quy định tại Nghị định 178 và
TTLT 03. Những trường hợp này xảy ra khá phổ biến và TCTD buộc phải khởi
kiện ra Tòa án để xử lý TSBĐ.
c) Quy định tại BLDS 2015
BLDS 2015 (có hiệu lực từ 01/01/2017) đã
bỏ quyền thu giữ TSBĐ - một trong những quyền năng cơ bản của bên nhận
bảo đảm. Theo đó, Điều 301 chỉ quy định trường hợp người đang giữ tài
sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Đây là một
bước“lùi” về quyền của TCTD trong pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Thứ hai, pháp luật của Việt Nam về quyền xử lý TSBĐ còn “dung túng” con nợ, chưa trao quyền năng tối đa cho TCTD trong việc xử lý TSBD
Pháp luật hiện hành của Việt Nam lại
không có cơ chế để thực thi một cách hiệu quả quyền xử lý TSBĐ của TCTD,
khi thu giữ TSBĐ, nếu chủ tài sản không bàn giao tài sản thì TCTD chỉ
có cách khởi kiện ra Tòa án, vai trò của cơ quan công quyền trong việc
hỗ trợ TCTD thu giữ TSBĐ rất mờ nhạt: việc tham gia của cơ quan công an
chỉ dừng lại ở việc giữ gìn an ninh trật tự.
Do đó, trường hợp chủ nợ muốn thu giữ
được TSBĐ trên thực tế để phục vụ cho công tác xử lý (cưỡng chế) thì
phải có bản án, có quyết định của Tòa án. Tòa án xử xong phải chờ bản án
có hiệu lực (không bị kháng cáo, kháng nghị), chờ cơ quan thi hành án.
Vì vậy, thường thì vài năm, thậm chí lâu
hơn TCTD mới có thể xử lý được TSBĐ. Với quyền năng hạn chế trong việc
thu giữ TSBĐ, nhiều trường hợp TSBĐ đã có người mua, đã công chứng,
chứng thực hợp đồng mua bán nhưng vì không thể bàn giao tài sản trên
thực tế dẫn đến không thể xử lý được TSBĐ.
Việc BLDS 2015 không trao quyền thu giữ
TSBĐ cho TCTD sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của TCTD do chịu rủi ro thì
việc biến động TSBĐ, chịu chi phí từ việc khởi kiện, vốn bị tồn đọng…
chưa kể đến áp lực lên hệ thống cơ quan tài phán dẫn đến chậm trễ trong
quá trình xét xử, còn con nợ thì có thêm cơ hội để chây ì.
Thứ ba, quyền xử lý TSBĐ của TCTD bị cản trở vì cách hiểu và áp dụng pháp luật chưa đúng
Về vấn đề này, có thể kể một số trường hợp phổ biến và điển hình như sau:
(i) Thời gian vừa qua, một số Tòa án đã
tước quyền xử lý tài sản thế chấp là QSDĐ, tài sản gắn liền với đất để
bảo đảm nghĩa vụ người khác, cụ thể: Tòa án ra quyết định Hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba giữa bên thế chấp và bên nhận thế
chấp vô hiệu là không phù hợp với các quy định của pháp luật về thế chấp
bằng QSDĐ của Bên thứ ba vì cho rằng hợp đồng thế chấp QSDĐ của Bên thứ
ba không phải là biện pháp thế chấp mà chỉ là biện pháp bảo lãnh vay
vốn ngân hàng.
Các phán quyết của Tòa án đã làm cho các
khoản cho vay của TCTD từ có bảo đảm trở thành khoản cho vay không có
bảo đảm, tạo điều kiện để Bên thế chấp lợi dụng để yêu cầu Tòa án tuyên
Hợp đồng thế chấp bằng QSDĐ của Bên thứ ba vô hiệu nhằm trốn tránh nghĩa
vụ của mình đối với TCTD.
(ii) Thực tiễn xét xử của Tòa án trong
thời gian vừa qua, trường hợp khách hàng không có nơi cư trú ổn định, cố
tình trốn tránh, không hợp tác, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
vắng mặt tại phiên tòa thì Tòa án quyết định trả lại đơn khởi kiện,
đình chỉ vụ án với lý do “chưa đủ điều kiện khởi kiện”.
Trong khi đó, quyền và nghĩa vụ của các
bên đã được xác định rõ ràng theo các hợp đồng đã ký kết, TSBĐ đang tồn
tại. Việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đình chỉ vụ án vì các lý do nêu
trên xảy ra nhiều trong thời gian qua đã khiến TCTD không thể thực thi
quyền khởi kiện để xử lý TSBĐ của mình.
(iii) Các Tòa án không chấp nhận việc
TCTD ủy quyền cho công ty con (công ty quản lý nợ trực thuộc TCTD) xử lý
nợ khởi kiện xử lý TSBĐ thu hồi nợ
Theo quy định tại Điều 581 BLDS 2005,
hợp đồng ủy quyền là một loại hợp đồng dân sự, chủ thể ký kết hợp đồng
dân sự có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. BLDS cũng không có quy định
nào giới hạn bên được ủy quyền phải là cá nhân hoặc cấm ủy quyền cho
pháp nhân.
Tại nhiều văn bản pháp luật khác cũng
quy định việc ủy quyền giữa pháp nhân và pháp nhân: Khoản 3 Điều 2 Nghị
định 78/2010/NĐ-CP về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính
phủ, Khoản 1 Điều 141 Luật thương mại 2006, Khoản 2 Điều 45 Luật Kinh
doanh bất động sản 2015...
Từ các quy định đã dẫn nêu trên, việc
TCTD ủy quyền cho công ty quản lý nợ (pháp nhân) thu hồi nợ (bao gồm cả
việc khởi kiện tại Tòa án) là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, một số Tòa án địa phương không chấp thuận việc TCTD ủy
quyền cho các công ty này đã cản trở việc TCTD thực thi quyền năng trong
việc khởi kiện để xử lý TSBĐvì các công ty quản lý nợ trực thuộc TCTD
là chủ thể nắm rõ thông tin về khoản nợ, TSBĐ, nếu TCTD không ủy quyền
được cho các công ty con này thì việc thu hồi nợ, xử lý TSBĐ sẽ khó khăn
hơn rất nhiều.
3. Một số kiến nghị, giải pháp
Thứ nhất: Khi xây dựng pháp
luật, các nhà làm luậtphải coi quyền xử lý TSBĐ là quyền đương nhiên của
TCTD - bên nhận thế chấp, phải đứng trên lập trường của bên cho vay –
TCTD, hiểu được những khó khăn của bên cho vay trong quá trình thu hồi
nợ vì trong quan hệ cho vay, chủ nợ mới là bên yếu thế.
Thứ hai: Quyền thu giữ TSBĐ là
quyền không thể thiếu của TCTD – bên nhận thế chấp. Nếu không có quyền
này sẽ dẫn đến nguy cơ tất cả các tranh chấp tín dụng được bảo đảm bằng
tài sản của TCTD phải khởi kiện ra Tòa án. Do đó, Điều 301 BLDS 2015 cần
phải sửa đổi theo hướng trao quyền thu giữ TSBĐ cho các TCTD-bên nhận
thế chấp. Đồng thời, quyền thu giữ TSBĐ của TCTD phải được bảo đảm thực
hiện bằng quyền lực của nhà nước hoặc sự hỗ trợ từ phía cơ quan công
quyền. Có như vậy, ý thức tự giác trả nợ của con nợ mới được nâng cao,
nợ xấu mới được xử lý triệt để.
Thứ ba: Cần tập huấn thường
xuyên, đầy đủ cho các cá nhân, người có thẩm quyền trong việc áp dụng
pháp luật, tránh tình trạng hiểu không đúng, không thống nhất các quy
định pháp luật làm cản trở quyền xử lý TSBĐ của TCTD.
Nguyễn Thị Hồng Hương – Vụ Pháp chế NHNN
Comments
Post a Comment