“Năng lực hoạch dịnh và thực thi chính sách của NHNN và Chính phủ tạo lòng tin cho nhà đầu tư và doanh nghiệp”

09/01/2020
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Lê Minh Hưng khẳng định thành công lớn nhất và xuyên suốt, có yếu tố then chốt của NHNN và hệ thống ngân hàng là giữ được nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, tạo dư địa để các Bộ ngành và Chính phủ điều hành, qua đó tạo lòng tin cho người dân, doanh nghiệp vào năng lực hoạch định và thực thi chính sách của Ngân hàng Trung ương và Chính phủ Việt Nam. Đó là phát biểu của Thống đốc tại Hội nghị trực tuyến triển khai nhiệm vụ, kế hoạch kinh doanh và công tác Đảng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) năm 2020 diễn ra vào ngày 8/1/2020 tại Hà Nội.
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/image/SBV403726/Web
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng.
Tham dự có Đ/c Lê Minh Hưng, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Thống đốc NHNN; Đ/c Bùi Ngọc Lam, Phó Tổng Thanh tra chính phủ, Đ/c Vũ Văn Họa, Phó Tổng kiểm toán nhà nước, Thiếu tướng Nguyễn Đình Thuận, Cục trưởng Cục An ninh Kinh tế, Bộ Công an, Thiếu tướng Nguyễn Đức Hiển, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra, Bộ Công an… Thủ trưởng các đơn vị NHNN: Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng; Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Chính sách tiền tệ, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Vụ Truyền thông, Vụ Thanh toán,Vụ Tài chính kế toán…
NHNN tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng của nền kinh tế
Báo cáo tại Hội nghị, ông Phan Đức Tú, Chủ tịch HĐQT BIDV cho biết, kết thúc năm 2019, tổng tài sản của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đạt 1.458.740 tỷ đồng, giữ vững vị thế là ngân hàng thương mại có quy mô tài sản lớn nhất Việt Nam; lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 10.768 tỷ đồng, vượt mức kế hoạch đề ra... Ông Phan Đức Tú gửi lời cảm ơn tới Chính phủ, NHNN, các Bộ, Ngành, địa phương, đối tác, khách hàng đã hỗ trợ, ủng hộ, đồng hành cùng BIDV; Năm 2020 là năm hoàn thành Đề án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết 42 của Quốc hội và quyết định số 1058/QĐ-TTg của Chính phủ, năm đầu thực hiện chiến lược phát triển đến 2025 và tầm nhìn đến 2030, BIDV xác định các mục tiêu kinh doanh chủ yếu: Huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn, tăng trưởng khoảng 14,5%; Tín dụng tăng trưởng theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, khoảng 13%; lợi nhuận trước thuế hợp nhất đạt 12.600 tỷ đồng; tỷ lệ nợ xấu kiểm soát thấp hơn 1,6%...Với phương châm hoạt động: “Kỷ cương – Trách nhiệm - Hiệu quả - Bứt phá”, toàn hệ thống BIDV sẽ triển khai quyết liệt, mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp, biện pháp thực thi hiệu quả chính sách tiền tệ, gia tăng chất lượng hoạt động, hiệu quả kinh doanh; tạo điều kiện và phục vụ tốt mọi nhu cầu về sản phẩm dịch vụ ngân hàng của nền kinh tế.
Quang cảnh Hội nghị.
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Thống đốc Lê Minh Hưng chúc mừng và đánh giá cao những kết quả đạt được của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua nhờ sự đoàn kết, quyết tâm và sáng tạo. Đồng thời, Thống đốc cũng khái quát, nêu bật những đóng góp có ý nghĩa và tích cực của ngành Ngân hàng trong năm qua, đồng thời cũng chỉ rõ những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong thời gian tới.
Thống đốc cho biết: Ngày 30-31/12/2019, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến, ngay sau đó, ngày 1/1/2020, Thủ tướng đã thay mặt Chính phủ ký Nghị quyết 01 và 02 về các nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngày đầu tiên đi làm của năm mới, ngày 2/1/2020, ngành Ngân hàng đã tổ chức Hội nghị triển khai nhiệm vụ của ngành Ngân hàng trong năm 2020 đến toàn hệ thống và ngày 3/1/2020, Thống đốc NHNN đã ký Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2020. Có thể nói, ngay từ đầu năm, Chính phủ cũng như hệ thống Ngân hàng đã tiến hành triển khai rất quyết liệt các nhiệm vụ đánh giá tổng kết những kết quả đạt được trong năm 2019, triển khai những nhiệm vụ quan trọng trong năm 2020.
Bám sát chỉ đạo của Chính phủ và của Thủ tướng, năm vừa qua, kết quả của ngành Ngân hàng đạt được rất tích cực, tất cả các chỉ tiêu ngành Ngân hàng đều đạt và vượt, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế 7.02% rất cao trong bối cảnh thương mại toàn cầu sụt giảm, tốc độ tăng trưởng các nước đều giảm. Toàn nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng ấn tượng như vậy trên nền tảng là các cân đối vĩ mô rất ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, nhiều năm liên tục vừa qua được kiểm soát và giữ vững, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng.
Thống đốc nhấn mạnh, NHNN điều hành CSTT một cách chủ động, linh hoạt, kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Từ đầu năm 2019 đến nay, ngành Ngân hàng đã cung cấp được 8.2 triệu tỷ đồng cho nền kinh tế. Áp lực một lượng lớn thanh khoản như vậy đưa ra nền kinh tế nhưng đã được NHNN điều tiết rất chủ động công cụ CSTT để kiểm soát. Kết quả, lạm phát cơ bản từ đầu nhiệm kỳ đến giờ biến động chỉ trong biên độ từ 1,4% đến 2%, giữ được nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, tạo dư địa để các Bộ ngành và Chính phủ điều hành. Đó là điểm thành công lớn nhất và xuyên suốt, có yếu tố then chốt của NHNN và hệ thống ngân hàng.
Về lãi suất, Thống đốc cho biết, nhu cầu vốn của nền kinh tế rất lớn và hệ thống ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chủ đạo cho nền kinh tế, trong đó tỷ trọng vốn cho vay trung dài hạn, vốn đầu tư cho nền kinh tế rất lớn, áp lực lên nguồn vốn thường xuyên cao. Tuy nhiên, trong các thời điểm, kể cả áp lực lãi suất quốc tế cũng như trong nước, NHNN đã kịp thời điều hành các công cụ thị trường để kiểm soát được ổn định mặt bằng lãi suất và khi điều kiện thị trường cho phép đã giảm lãi suất cho vay. Trên thực tế, kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay, NHNN đã giữ được ổn định và giảm mặt bằng lãi suất, đặc biệt là lãi suất cho các lĩnh vực ưu tiên và hiện nay, trần lãi suất cho vay lĩnh vực ưu tiên chỉ còn 6%. Ngành Ngân hàng cũng chủ động điều tiết, giảm các mức lãi suất điều hành của NHTW vào thời điểm phù hợp với khối lượng và liều lượng thích hợp để đạt được kết quả giảm mặt bằng lãi suất, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, người dân vay vốn ngân hàng. Điều hành lãi suất cân đối được các yếu tố trong nền kinh tế, người vay vốn, người gửi tiền cũng như các TCTD được đảm bảo cân đối một cách hài hòa. Nguồn vốn tín dụng vẫn được điều tiết một cách kịp thời, đưa vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Thống đốc Lê Minh Hưng cũng nhấn mạnh, một trong những điểm sáng nhất của điều hành chính sách tiền tệ là tỷ giá và thị trường ngoại hối. Đầu nhiệm kỳ, dự trữ ngoại hối của Việt Nam ở mức 31 tỷ, nhưng đến cuối năm 2019, Việt Nam đã có dự trữ ở mức 79,9 tỷ USD, xấp xỉ 80 tỷ USD. Thống đốc cho biết: “Trong 4 năm vừa qua, NHNN đã tăng hơn 48 tỷ USD dự trữ ngoại hối. Điều này có được là nhờ chính sách về tỷ giá, ngoại hối rất đồng bộ, ban hành đúng và trúng, kết hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách tiền tệ khác, trong đó có lộ trình để giảm việc huy động và cho vay vốn bằng đồng Đô la Mỹ, áp trần lãi suất kết hợp với điều hành cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt và điều hành các chính sách tiền tệ khác bằng đồng Việt Nam. Chính vì vậy, số ngoại tệ lớn chúng ta mua để tăng dự trữ ngoại hối như vậy một phần nhờ FDI, FII, kiều hối, một phần lớn nhờ các doanh nghiệp, người dân đã giảm nắm giữ ngoại tệ, chuyển sang nắm giữ tiền Đồng”. Thống đốc khẳng định, có được kết quả này, NHNN không áp dụng các biện pháp hành chính để thay đổi hành vi, thói quen nắm giữ ngoại tệ, mà áp dụng các biện pháp kinh tế để người dân, doanh nghiệp thấy được nắm giữ đồng Việt Nam là có lợi nhất, tự khắc họ sẽ có sự chuyển dịch. Thống đốc chỉ rõ: NHNN cũng kiểm soát tốt tâm lý kỳ vọng về tỷ giá. Trước đây, trong nền kinh tế, không ít người có tâm lý tiền đồng luôn mất giá, nhưng trong thời gian qua, NHNN đã điều hành rất linh hoạt tạo một công cụ, một tấm đệm, nguồn lực để củng cố nguồn lực quốc gia, củng cố lòng tin vào năng lực của NHTW để xử lý những bất lợi từ kinh tế quốc tế và khu vực. Đây là một trong những yếu tố thành công về mặt điều hành, tất cả các nhu cầu của nền kinh tế về ngoại tệ đều được đáp ứng, chúng ta đảm bảo được các cân đối lớn của nền kinh tế. Vì vậy, vừa qua nhiều tổ chức xếp hạng tín nhiệm nhìn vào điều hành tỷ giá, dự trữ ngoại hối của NHNN đã nâng mức xếp hạng đối với nền kinh tế Việt Nam.
Thống đốc cũng cho biết thêm: Nhiều năm vừa qua, Việt Nam đã kiểm soát lạm phát ở mức thấp, đặc biệt lạm phát cơ bản – chỉ số thể hiện rõ nhất kết quả điều hành tiền tệ, NHNN đã kiểm soát trong biên độ 1,4% và năm 2019 là 2,01%. Trong năm 2019, NHNN đã mua trên 20 tỷ USD để tăng dự trữ ngoại hối, tức là đã cung ứng ra thị trường một lượng thanh khoản đồng Việt Nam xấp xỉ 500 ngàn tỷ. Từ đầu nhiệm kỳ tới nay, NHNN mua vào 48 tỷ USD tức là đưa khoảng 1,1 triệu tỷ đồng Việt Nam ra nền kinh tế nhưng không gây áp lực lạm phát. Điều đó có nghĩa là điều hành vĩ mô của Ngân hàng Trung ương, đặc biệt là điều hành chính sách tiền tệ, thanh khoản rất nhịp nhàng, đồng bộ, linh hoạt để giữ được ổn định, nhưng không gây ra khó khăn về thanh khoản cục bộ. Năm vừa qua, Tết Dương lịch có yếu tố mùa vụ, nhưng chúng ta không có vấn đề về thanh khoản tức là điều tiết đảm bảo đủ cung ứng vốn, đủ thanh khoản cho nền kinh tế nhưng không gây áp lực tiền tệ, áp lực lạm phát.
Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng.
Đây là một điều mà trong nhiều năm qua, hệ thống ngân hàng, đặc biệt là NHNN đã rất thành công trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Như vậy, chúng ta góp phần cùng với các Bộ ngành giúp cho Chính phủ điều hành lạm phát tổng thể, lạm phát bình quân đạt được mục tiêu của Quốc hội đề ra. Năm nay lạm phát bình quân 2,79% mức thấp vượt xa hơn rất nhiều so với mức mà Quốc hội đề ra. Chúng ta điều hành tiền tệ tốt còn tạo ra dư địa cho các Bộ ngành thực hiện lộ trình điều chỉnh mặt bằng giá mà nhà nước đang quản lý.
Thống đốc cho biết: “Kỳ vọng lạm phát trong nền kinh tế trước đây rất lớn, do đó, thời gian qua, thành công của NHNN là neo giữ được tâm lý kỳ vọng lạm phát, vì vậy, giải phóng được tâm lý này chính là thành công rất quan trọng, củng cố lòng tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp vào năng lực hoạch định và thực thi chính sách của Ngân hàng Nhà nước, của Chính phủ và thời gian vừa qua đã kiểm chứng điều đó”.
Ngân hàng cung ứng vốn để thúc đẩy chuyển dịch các lĩnh vực của cả nền kinh tế
Trong thời gian qua, NHNN đã điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý. Việt Nam hiện có nhu cầu tăng trưởng kinh tế cao nhằm rút ngắn khoảng cách với các nước và để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Chính phủ cũng như Thủ tướng thường xuyên yêu cầu NHNN điều hành tín dụng đảm bảo đủ cung ứng vốn cho nền kinh tế nhưng phải kiểm soát được chất lượng và đảm bảo cơ cấu tín dụng để phát triển kinh tế không gây những rủi ro, bất ổn cho nền kinh tế vĩ mô. Tín dụng năm nay, theo con số mới nhất từ Vụ Tín dụng các ngành Kinh tế, tăng khoảng 13.75%. Như vậy, đến nay, hệ thống ngân hàng đã cung ứng cho nền kinh tế khoảng 8,2 triệu tỷ đồng Việt Nam. Quy mô tín dụng rất lớn nhưng vẫn đảm bảo an toàn chất lượng và kiểm soát tốt chất lượng tăng trưởng tín dụng.
Thống đốc nhấn mạnh, khi so sánh giữa tỷ lệ tăng trưởng GDP và tỷ lệ tăng trưởng tín dụng sẽ thấy rất rõ chất lượng tín dụng của ngành Ngân hàng được cải thiện ra sao. Cụ thể là: Trong giai đoạn 2001-2010 tín dụng tăng bình quân khoảng 30% nhưng GDP bình quân tăng 6,82 phần trăm, như vậy, tăng tín dụng/GDP bằng 4,1 lần trong giai đoạn này và thậm chí, năm 2007 bằng khoảng 5,3 lần giữa tỷ lệ tín dụng và GDP, tức là năm lần tăng tín dụng mới đat được 1% tăng GDP. Trong giai đoạn 2016 đến nay, tỷ lệ tín dụng/GDP đã giảm dưới 3 lần, đặc biệt trong năm 2018, 2019, tỷ lệ này giảm xuống dưới 2 lần, chứng tỏ hiệu quả tín dụng đã được tăng cường và củng cố. GDP tăng cao nhưng không đi kèm với mở rộng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ, tốc độ, chất lượng và quy mô tín dụng cũng như cơ cấu tín dụng tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế.
Nhìn vào bức tranh tổng thể cơ cấu tín dụng của tổng thể nền kinh tế, có thể thấy trên 80% nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh, những lĩnh vực như nông nghiệp nông thôn, tỷ trọng tín dụng của toàn hệ thống chiếm khoảng 25%, doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 20%, cơ cấu công nghiệp chế biến, chế tạo, tốc độ và tỷ trọng đều có mức tăng rất ấn tượng. Đặc biệt, khi nhìn vào cơ cấu tăng trưởng GDP của nền kinh tế, các yếu tố, các ngành đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đều có mức tăng trưởng tín dụng lớn, điều đó cho thấy tín dụng đã chuyển dịch, đưa vào sản xuất kinh doanh, đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời, ngành Ngân hàng cũng hỗ trợ các lĩnh vực khác của nền kinh tế cơ cấu lại để hấp thụ vốn của ngành ngân hàng, qua đó thúc đẩy chuyển dịch các lĩnh vực kinh tế của đất nước. Đồng thời, các Bộ, ngành, địa phương trong quá trình cơ cấu lại cũng giúp ngành Ngân hàng tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng.
Về cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của ngành Ngân hàng, Thống đốc cho rằng kết quả chung của toàn hệ thống hiện nay đã an toàn hơn, chất lượng hơn, công khai minh bạch hơn, ý thức chấp hành kỷ cương, pháp luật của nhà nước cũng như quy định của ngành cũng tốt hơn rất nhiều. Con số về tốc độ tăng trưởng, tổng tài sản, vốn tự có, các kết quả hoạt động kinh doanh trên vốn, trên tổng tài sản đều có bước phát triển, các quy định về quản trị điều hành cũng được triển khai. Công tác kiểm tra, kiểm soát trên toàn hệ thống cũng được các tổ chức tín dụng tăng cường hơn, chất lượng hoạt động của chúng ta trong những năm vừa qua cũng được lành mạnh hơn. Kết quả xử lý nợ xấu rất tốt. Đầu nhiệm kỳ, tất cả các khoản nợ xấu gồm nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu, nợ xấu bán cho VAMC, nợ tái cơ cấu theo Quyết định 780/QĐ-NHNN… khoảng 10,08% trên tổng dư nợ tín dụng. Đến cuối 2019, tổng các khoản đó chỉ còn 4,59%, nợ nội bảng chỉ còn 1,89%. Tức là nỗ lực của toàn hệ thống ngân hàng triển khai Đề án 1058 và Nghị quyết 42 của Quốc hội. Nhiệm vụ của chúng ta trong năm nay là đưa các khoản nợ xấu đó về dưới 5% thì chúng ta đã đưa về 4,59% và năm tới chúng ta sẽ quyết tâm đưa về dưới 3% theo chỉ đạo của Quốc hội và Chính phủ.
Một điểm sáng nữa trong thời gian qua, đó là NHNN và các tổ chức tín dụng tiên phong trong việc áp dụng khoa học công nghệ, cung ứng các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt các hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt đã có các bước phát triển rất ấn tượng cả về số lượng và quy mô giao dịch, đặc biệt phát triển mạnh trong 2018 và 2019.
Đề cập đến vấn đề truyền thông, Thống đốc nhấn mạnh, hệ thống ngân hàng trong đó với vai trò của NHNN đã làm tốt công tác thông tin truyền thông, giải quyết kịp thời các vấn đề dư luận quan tâm, củng cố niềm tin trong nhân dân, ổn định thị trường và minh bạch hóa chính sách tiền tệ, góp phần giúp công chúng, hiểu và chia sẻ nỗ lực NHNN và hệ thống ngân hàng qua đó tạo hình ảnh tốt hơn trong mắt công chúng.
Thống đốc ghi nhận, biểu dương kết quả hoạt động kinh doanh của BIDV với cơ cấu và chất lượng tín dụng được kiểm soát tốt, tăng trưởng tích cực; chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng hiện đại, ứng dụng giao dịch công nghệ mới, số hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; chủ động, đi đầu thực hiện chính sách tiền tệ, hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội các địa phương; cùng toàn ngành làm tốt công tác an sinh xã hội... Đặc biệt việc đàm phán thành công giao dịch có quy mô lớn nhất trong hệ thống với KEB Hana Bank, giúp BIDV trở thành ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam.Về việc BIDV là ngân hàng có mức vốn hóa lớn thứ 3 trên thị trường, phản ánh kỳ vọng của nhà đầu tư vào tiềm năng phát triển của BIDV sau khi có sự tham gia cổ đông chiến lược KEB Hana Bank Hàn Quốc, Thống đốc cũng cho biết, Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Trung ương Việt Nam hoàn toàn tin tưởng và cho rằng đây là một quyết định đầu tư rất sáng suốt của KEB Hana. “Sự có mặt của KEB Hana sẽ là một động lực cho hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển đạt được nhiều kết quả tốt hơn. Ngược lại, khoản đầu tư vào BIDV cũng sẽ là một thành công trong tương lai cho KEB Hana và chúng ta cùng đồng hành vì mục tiêu chung và vì sự nghiệp kinh tế của Việt Nam cũng như sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới”.
Cũng tại hội nghị, Thống đốc Lê Minh Hưng đã giao nhiệm vụ cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong năm 2020 để bám sát chỉ đạo của Chính phủ và của NHNN, đặc biệt tại Chỉ thị 01 của NHNN. Thống đốc cũng bày tỏ tin tưởng BIDV sẽ tiếp tục tiên phong thực thi chính sách tiền tệ của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, phát huy truyền thống, bản lĩnh, cốt cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần cùng toàn ngành Ngân hàng thực hiện thắng lợi những mục tiêu của Ngành năm 2020.
Thống đốc yêu cầu, các NHTM nói chung và BIDV nói riêng phải thường xuyên báo cáo NHNN trung ương cũng như các chỉ nhánh NHNN tại địa phương để làm tốt công tác truyền thông, đưa những hoạt động hệ thống ngân hàng trong đó có BIDV đến với công chúng người dân, khách hàng, doanh nghiệp. đặc biệt là công khai minh bạch về thủ tục quy định nội bộ của ngân hàng, thủ tục về vay vốn, lãi suất, để tăng cường khả năng tiếp cận vốn, giảm chi phí hành chính cho người vay vốn, DN hỗ trợ cho nền kinh tế.
Thoa Lê
Ảnh: Đức Khanh

Comments

Popular posts from this blog

Xin hỏi định nghĩa về thoái thu và thoái chi??

Dề Thi Vietinbank - 10 dề (cập nhật 2020)

Học việc, thử việc tại ngân hàng: Cuộc sống muôn màu