Các chuyên gia của BIDV dề xuất 6 giải pháp căn cơ giảm trừ tín dụng đen tại Việt Nam

Tín dụng đen đang là vấn đề gây nhức nhối và trở thành vấn nạn kinh tế - xã hội hiện nay. Chính phủ đã xác định đẩy lùi tín dụng đen là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2019 và kể cả sau này...

LTS: Đã có nhiều bài viết, bình luận và đề xuất giải pháp để thực hiện mục tiêu này. Tuy nhiên, thực tế là việc hiểu, nhận dạng tín dụng đen vẫn còn khá chung chung, giải pháp chưa căn cơ, chưa đồng bộ, dẫn đến kết quả triển khai chưa thực sự hiệu quả trong khi tệ nạn tín dụng đen đang hoành hành, nhất là ở những vùng nông thôn, miền núi, xa xôi, dân tộc thiểu số.

Mới đây, TS. Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia của Trung tâm nghiên cứu thuộc Ngân hàng BIDV cũng đã công bố những nghiên cứu rõ thêm về tín dụng đen, bản chất và nguyên nhân của nó; đối chiếu kinh nghiệm quốc tế; và từ đó đề xuất 6 giải pháp căn cơ nhằm giảm trừ tín dụng đen.

Chúng tôi xin được đăng nguyên văn bài nghiên cứu của nhóm tác giả để quý độc giả cùng theo dõi.
-------

1. Hiểu đúng và đủ hơn về tín dụng đen
Trong nền kinh tế, khi có nhu cầu tín dụng, người dân hoặc doanh nghiệp (chủ yếu là doanh nghiệp siêu nhỏ) có thể vay tiền từ khu vực tín dụng chính thức, thường là các ngân hàng (kể cả Ngân hàng Chính sách xã hội), công ty tài chính tiêu dùng, công ty cho thuê tài chính, công ty công nghệ tài chính (Fintech), tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, hụi, họ, biêu, phường…(gọi chung là các tổ chức tài chính). Đây là các tổ chức được quản lý, giám sát và hoạt động theo qui định của pháp luật.

Trong trường hợp không thể hoặc không muốn tiếp cận nguồn tín dụng chính thức; người dân hoặc doanh nghiệp siêu nhỏ thường tìm đến khu vực tín dụng phi chính thức, tức là vay tiền từ các cá nhân, tổ chức, công ty, hội, nhóm, bạn bè, người thân…; mà hoạt động của những cá nhân/tổ chức này không được giám sát, quản lý chặt chẽ như khu vực chính thức. Trong khu vực tín dụng phi chính thức có một phần là tín dụng đen. Đến nay, chưa có một định nghĩa chính thống nào về "tín dụng đen"; mà theo văn hóa lâu nay tại Việt Nam, chữ "đen" ở đây không chỉ mang nghĩa "phi chính thức"mà còn mang nghĩa xấu, nghĩa"vi phạm pháp luật"(thường là lãi suất cắt cổ, thỏa thuận vay mượn và hành vi đòi nợ không theo bất kể qui định nào của pháp luật).

Với cách hiểu như vậy, có thể thấy ba đặc điểm quan trọng của tín dụng đen là: (i) nằm ngoài hệ thống các tổ chức tài chính, (ii) lãi suất cắt cổ, và (iii) gắn với các hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi này khá tương đồng với thuật ngữ "Predatory lending", tạm dịch là cho vay trấn lột (cho vay tà tâm - ác ý); theo đó, bên cho vay áp đặt các điều kiện tín dụng không công bằng và lạm dụng đối với bên vay (thường thông qua các thủ thuật chào bán không trung thực, khoản vay chứa nhiều điều kiện bất lợi cho người vay, có thể hăm dọa để đòi nợ…).

Về bản chất, tín dụng đen khá giống với cho vay trấn lột này vì đều là hình thức kiếm siêu lợi nhuận, gian lận và lừa đảo. Trong đó, bên cho vay đã lợi dụng điểm yếu của bên vay là thiếu hiểu biết về dịch vụ tài chính, không cả khả năng tiếp cận tín dụng chính thức (do chủ quan và cả khách quan) trong khi đang rất cần tiền. Theo đó, bên cho vay tính lãi suất và phí rất cao, muốn cho vay ngay cả khi biết bên vay sẽ không trả được nợ; bên cho vay còn đưa thông tin sai, không minh bạch, thay đổi các điều khoản tín dụng mà không hề báo trước dẫn đến những rủi ro, thiệt hại nghiêm trọng đối với bên vay như nguy cơ phá sản, nghèo đói, tan cửa, nát nhà, mất tài sản...v.v. Rõ ràng là ở đây, bên cho vay đã thực hiện những hành vi phi đạo đức và trái luật nhằm mục đích tư lợi cá nhân và thường gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bên vay...v.v. Người vay đa số là người nghèo, dân tộc thiểu số, thiếu hiểu biết, dễ bị tổn thương, mất việc, cần tiền gấp để trả nợ, lo sự kiện như đám hiếu, chữa bệnh hay mua gấp một vật dụng nào đó (ngoại trừ một số người vay dạng lừa đảo, cờ bạc, buôn lậu, nghiện ngập …- đối tượng này không nhiều và bên cho vay cũng khá thận trọng).

Tại một số quốc gia, hành vi này đều bị ngăn chặn bởi quy định pháp luật. Chẳng hạn, tại Mỹ, bên vay được bảo vệ bởi đạo luật bảo vệ người tiêu dùng tài chính, đạo luật công bằng cơ hội tiếp cận tín dụng, đạo luật tín dụng nhà ở. Cơ quan chịu trách nhiệm chính là Cục Bảo vệ người tiêu dùng tài chính, được thành lập từ năm 2011.

2. Tín dụng đen tại Việt Nam và hệ lụy
Về quy mô, theo ước tínhcủa chúng tôi,quy mô tín dụng phi chính thứctại Việt Nam hiện naytương đương khoảng 15-20% tổng tín dụng của nền kinh tế; trong đó, quy mô tín dụng đen chiếm khoảng 30-35% tổng tín dụng phi chính thức, tương đương 6-8% tổng dư nợ nền kinh tế, khoảng 450-550 ngàn tỷ đồng (cuối năm 2018). Đây không phải con số lớn, nhưng hệ lụy xã hội thì rất lớn, rất phức tạp và cần lưu tâm xử lý.

Về hình thức, tín dụng đen có thể do cá nhân, tổ chức cung cấp, nhưng thường núp bóng dướicác cơ sở kinh doanh, hội, nhóm như tiệm cầm đồ, cơ sở kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê, công ty tư vấn tài chính, hay hụi, họ, phường….Bên vay chủ yếu là cá nhân, một số doanh nghiệp siêu nhỏ. Về mục đích, cá nhân vay tiền chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cấp bách, trả nợ, xây nhà, mua nhà, sản xuất, kinh doanh, đóng học phí, chữa bệnh…v.v. Cũng có những cá nhân vay để thực hiện những mục đích xấu như làm ăn không chính đáng, buôn lậu, chơi đề, cờ bạc, nghiện hút…v.v. Doanh nghiệp nhỏ đi vay tín dụng đen chủ yếu để trả nợ, đảo nợ, trả lương nhân viên hoặc giải quyết tình huống cấp bách. Trong khi đó, mục đích chính của bên cho vay là kiếm lời nhanh, giàu nhanh mà bỏ qua nguy cơ nợ xấu cũng như vi phạm pháp luật.

Về phương thức hoạt động,tín dụng đen được quảng bá thông qua việc phát, dán tờ rơi, lập các website, sử dụng mạng xã hội, đăng tin, gửi tin nhắn quảng cáo vay tiền không cần gặp mặt, không cần thế chấp, thủ tục đơn giản, cấp tiền ngay, với số tiền vay có thể từ 1 triệu đồng đến vài chục hay hàng trăm triệu đồng.

Về loại hình cho vay, tín dụng đen thường có 2 loại chính. Một là cho vay gộp, nghĩa là ngắn hạn, yêu cầu trả gốc và lãi hàng ngày. Hai là vay nóng, trả lãi theo ngày, trả nợ gốc vào một thời điểm ấn định, loại này cực kỳ rủi ro, nên lãi suất cao hơn. Lãi suất dạng vay gộp hiện nay khoảng 60-70%/năm, trong khi vay nóng có thể trên 100%, thậm chí gần 400%/năm. Tuy nhiên, cần lưu ýlà Điều 468 Luật dân sự 2015 có qui định trần lãi suất là 20%/năm,nhưng có mở ngoặc là trừ khi luật chuyên ngành có quy định khác. Theo đó, nếu Luật các tổ chức tín dụng (TCTD)cho phép thỏa thuận lãi suất thì trần lãi suất nói trên không bị vi phạm.Thí dụ,cho vay tiêu dùng hiện nay có mức lãi suất 20-50%/nămnhưng không vi phạm luật.

Về địa bàn,tín dụng đen thường hoạt động tại các vùng nông thôn, đồng bào thiểu số ở cả 63 tỉnh, thành trong cả nước, nhưng tập trung nhiều tại các tỉnh miền Trung, Đồng bằng sông Cửu long, Tây Nguyên…v.v.Đây là những khu vực nghèo, còn nhiều khó khăn, khả năng tiếp cận tín dụng chính thức chưa nhiều, trong khi nhận thức, trình độ, hiểu biết của người dân, doanh nghiệp về các kênh vay tiền chính thống còn hạn chế.
Ở đây cần lưu ý 2 loại hình đầu tư hay tín dụng thường bị nhầm với tín dụng đen. Thứ nhất là cho vay ngang hàng (P2P lending) - là phương thức cho vay trực tiếp giữa người có vốn và người cần vốn thông qua nền tảng công nghệ; trong đó tổ chức cung cấp dịch vụ cho vay P2P chỉ kết nối 2 bên, cung cấp thông tin, đánh giá tín nhiệm về khoản vay, tư vấn, không phải người quyết định cho vay cuối cùng và chỉ hưởng phí (không hưởng lãi). Trong khi đó, tín dụng đen sử dụng các trang web, ứng dụng phần mềm như một kênh để tiếp cận con mồi, vẫn sử dụng vốn của mình để quyết định cho vay và hưởng lãi. Thứ hai là hình thức chơi họ, hụi, biêu, phường..; thuộc khu vực tín dụng phi chính thức, được pháp luật công nhận và có quy định điều chỉnh. Gần đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/2/2019 điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của họ, hụi, biểu, phường. Tuy nhiên,các dạng biến tướng của cho vay ngang hàng hay chơi hụi, họ đều có thể dẫn đến hình thành tín dụng đen.

Hệ lụy kinh tế - xã hội của tín dụng đen là rất rõ ràng, rất lớn và nhức nhối. Trên phương tiện thông tin đại chúng, mỗi tuần có hàng chục vụ việc được phanh phui mà đối tượng chịu ảnh hưởng lại chính là dân nghèo, dân tộc thiểu số, nông dân, phụ nữ…v.v. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Công an được công bố mới đây, trong khoảng 4 năm qua, trên toàn quốc xảy ra khoảng 7.624 vụ phạm tội liên quan đến "tín dụng đen"; trong đó có 56 vụ giết người, 398 vụ cố ý gây thương tích, 629 vụ cướp tài sản, 836 vụ cưỡng đoạt tài sản, 1.809 vụ lừa đảo, 3.581 vụ lạm dụng tín nhiệm, 165 vụ hủy hoại tài sản...v.v. Như vậy, tín dụng đen có quy mô không phải quá lớn nhưng hệ lụy kinh tế - xã hội là rất nghiêm trọng. Đặc biệt, tình hình tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến "tín dụng đen" có chiều hướng diễn biến phức tạp, gây bất ổn trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự; và nhất là giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp nhỏ.

3. Nguyên nhân tín dụng đen tại Việt Nam
Đã có nhiều phân tích về nguyên nhân khiến tín dụng đen tại Việt nam tồn tại và thậm chí đang hoành hành; tựu chung lại có 5 nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, một phần nhu cầu tín dụng, đầu tư nhỏ lẻ chưa được đáp ứng đầy đủ, kịp thời bởi khu vực chính thức. Có 4 nguyên nhân của thực trạng này: i) Thị trường vốn chưa phát triển. Qui mô tín dụng ngân hàng của Việt Nam hiện nay tương đối lớn (7,2 triệu tỷ đồng, tương đương 131% GDP tính đến cuối năm 2018, tương đương Singapore, Malaysia, cao hơn so với tỷ lệ bình quân 83% GDP của ASEAN hay mức 44% GDP của khối các nước thu nhập trung bình thấp...). Tuy nhiên, thị trường cổ phiếu và trái phiếu còn chưa phát triển với qui mô nhỏ (vốn hóa cả 2 thị trường này của Việt Nam hiện nay tương đương khoảng 94% GDP, so với mức 143,5% GDP của Trung Quốc hay 190% GDP của ASEAN-5), nên huy động vốn qua kênh thị trường vốn chưa nhiều, mà vẫn chủ yếu qua kênh tín dụng ngân hàng. (ii) Qui trình, thủ tục vay vốn từ các tổ chức tài chính vẫn còn khá phức tạp(chủ yếu theo yêu cầu của pháp luật liên quan); tài sản thế chấp vẫn là một rào cản và cho vay tín chấp còn hạn chế (chủ yếu do thông tin về bên vay thiếu minh bạch, thiếu độ tin cậy) trong khi vấn đề hình sự hóa quan hệ tín dụng vẫn phổ biến;

(iii) Sản phẩm – dịch vụ của các tổ chức tài chính chưa hoàn toàn phù hợp (thí dụ, việc vay tiền để chữa bệnh, lo đám hiếu, vay nóng, vay nhỏ lẻ …từ kênh tín dụng chính thức chưa dễ dàng). (iv) Mức độ bao phủ của kênh tín dụng chính thức của Việt Nam vẫn còn thấp, phân bổ chưa hợp lý.

Theo thống kê của WB, tỷ lệ người lớn có tài khoản ngân hàng tại Việt Nam cuối năm 2017 mới là 40%, so với mức 80% của Trung Quốc, 70% của ASEAN-5 hay 58% của khối các nước thu nhập trung bình thấp. Tương tự, tại Việt Nam mới có 27% người lớn sở hữu thẻ ghi nợ so với mức 67% của Trung Quốc, 55% của ASEAN-5 hay 60% của khu vực Đông Á – TBD; số chi nhánh ngân hàng tính trên 100.000 người lớn tại Việt Nam mới chỉ đạt mức 3,9 so với con số 8,8 của Trung Quốc, 11,8 của ASEAN-5 hay 12,6 của thế giới…v.v. Đây là các con số khá thấp cho thấy còn nhiều nhu cầu tín dụng, đầu tư có thể được đáp ứng bởi khu vực tín dụng chính thức nhưng chưa tiếp cận được. Không những vậy, mạng lưới của các tổ chức tài chính phân bổ chưa đồng đều, chủ yếu tập trung tại khu vực thành thị, ven đô, trong khi tại các khu vực nông thôn, dân tộc thiểu số, miền núi còn khá thưa thớt và mức độ ứng dụng công nghệ (như tài chính số, vay tiền di động…) còn hạn chế.

- Thứ hai, kiến thức, trình độ hiểu biết về các sản phẩm–dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp nhỏ còn hạn chế.Theo báo cáo của một nghiên cứu năm 2018 của Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội), chỉ số phổ cập tài chính của Việt Nam chỉ đạt 21,28 điểm, xếp thứ 112/176 trên thế giới và đứng ở vị trí 22/37 quốc gia đang phát triển tại châu Á. Những hạn chế về hiểu biết tài chính của phần lớn người dân, doanh nghiệp nhỏ đã trực tiếp ảnh hưởng tới việc tiếp cận các sản phẩm - dịch vụ tài chính của họ. Đồng thời, nhiều người có thói quen ngại tìm hiểu, ngại đến các tổ chức tài chính để được tư vấn, trong khi một số nhân viên của các tổ chức này chưa có kỹ năng tư vấn khách hàng tốt…v.v. Trong khi đó, phương thức hoạt động của tín dụng đen ngày càng tinh vi và đa dạng; nên nhiều người dân, chủ doanh nghiệp nhỏ bị mắc bẫy tín dụng đen thời gian qua.

- Thứ ba, đó là vấn đề đạo đức và lòng tham. Về phía bên cho vay, như trên đã phân tích, vì mục tiêu lợi nhuận, chủ hội tín dụng đen luôn gạ gẫm, dùng các chiêu thức khác nhau để lôi kéo người dân vay vốn, dù biết rằng với lãi suất cao như vậy khả năng trả nợ rất khó. Về phía người vay, tồn tại 2 loại chính là người vay làm ăn chính đáng, có nhu cầu thực và người vay làm ăn bất chính. Có những cá nhân không có nhu cầu vay nhưng tìm đến tín dụng đen để có nguồn vốn thực hiện đầu tư mạo hiểm, buôn lậu, đầu cơ, hoặc đầu tư vào các lĩnh vực không được pháp luật khuyến khích. Thậm chí, có người vay tín dụng đen rồi bỏ trốn, quỵt nợ, gây tranh chấp kéo dài và xử lý lẫn nhau rất dã man, theo luật rừng…v.v. Ngoài ra, không loại trừ trường hợp có thông đồng giữa nhân viên của các tổ chức tài chính với hội tín dụng đen hay bên vay để rút tiền, chiếm đoạt hay đảo nợ…v.v.

- Thứ tư, Người vay tiền cần tìm hiểu lãi suất để tránh 'cạm bẫy' tín dụng đen

TS. Cấn Văn Lực và Trung tâm Nghiên cứu BIDV
Theo Trí thức trẻ

Comments

Popular posts from this blog

Học việc, thử việc tại ngân hàng: Cuộc sống muôn màu

Xin hỏi định nghĩa về thoái thu và thoái chi??