Chính sách tiền tệ chủ dộng linh hoạt hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế
31/10/2019
Chính sách tài khóa, tiền tệ chủ động linh hoạt đã góp
phần ổn định thị trường tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng nền kinh tế.
Việc thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu
của các TCTD đạt kết quả tích cực, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 8/2019
là 1,98%, bảo đảm an toàn hệ thống.
Quang cảnh tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về kinh tế - xã hội.
Đó là phát
biểu của đại biểu Bùi Thanh Tùng (TP Hải Phòng) sáng ngày 31/10 tại Kỳ họp thứ
8, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về kinh tế - xã hội.
Đại
biểu Bùi Thanh Tùng nhấn mạnh, năng lực cạnh tranh của Việt Nam cải thiện vượt
bậc trên cả ba trụ cột là thể chế, cơ sở hạ tầng và kỹ năng, tăng 10 bậc so với
năm 2018 và được các tổ chức quốc tế uy tín đánh giá như một điểm sáng trong
khu vực và toàn cầu. Đó chính là những thước đo rất cụ thể về những kết quả nổi
bật của nền kinh tế đất nước.
Kinh
tế Việt Nam vẫn đạt được tăng trưởng cao
Đại
biểu Bùi Thanh Tùng cho rằng¸ tăng trưởng kinh tế vượt mục tiêu đề ra trong khi
chúng ta vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc hơn. Lạm phát được kiểm
soát tốt và các cân đối lớn của nền kinh tế được củng cố, mở rộng. Các chỉ số
như tốc độ tăng GDP cả năm ước đạt trên 6,8%, chỉ số giá tiêu dùng dưới 3%. Lạm
phát bình quân thấp hơn dưới 3%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 4% của Quốc
hội đã quy định. Bội chi ngân sách chỉ còn khoảng 3,4% GDP, nợ công giảm còn
56,15% GDP so với 64,6% tại đầu nhiệm kỳ. Dự trữ ngoại hối đạt khoảng 73 tỷ USD
so với 31 tỷ USD đầu nhiệm kỳ. Kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng khoảng 7,9%, trong
đó xuất siêu khoảng 1 tỷ đôla bằng 0,4% kim ngạch xuất khẩu, trong bối cảnh
thương mại toàn cầu suy giảm, trong đó riêng xuất khẩu nông, lâm thủy sản đạt
trên 41 tỷ USD.
Đại
biểu Nguyễn Thị Mai Hoa - Đồng Tháp cho rằng, thực sự có rất nhiều kết quả lớn
ấn tượng đáng ghi nhận trong bức tranh kinh tế xã hội của năm 2019, ví dụ như
vấn đề tốc độ tăng trưởng GDP ổn định, dự trữ ngoại hối tăng gấp đôi so với đầu
nhiệm kỳ, nợ công giảm mạnh, lạm phát được kiềm chế, đặc biệt là năm thứ hai
liên tiếp chúng ta đạt và vượt 12 chỉ tiêu chủ yếu. Đây là thành tựu từ sự nỗ
lực của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của lòng dân và đặc biệt là công
tác điều hành của Chính phủ.
Còn
theo đại biểu Trần Hoàng Ngân (TP. Hồ Chí Minh), trong bối cảnh kinh tế thế
giới khó khăn nhưng kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tăng trưởng cao thể hiện sự
nỗ lực, cố gắng của chúng ta.
Đại biểu Trần Hoàng Ngân phát biểu
Đại
biểu Trần Hoàng Ngân cho rằng chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang tác động
nhiều chiều đến kinh tế Việt Nam, cả theo hướng thuận và không thuận.
Về
mặt không thuận, Việt Nam nhập siêu hàng hóa từ Trung Quốc tăng cao, các vấn đề
như gian lận thương mại, xuất xứ hàng hóa… diễn biến phức tạp đòi hỏi Chính phủ
cần quan tâm ngăn chặn hiệu quả.
Trong
10 tháng đầu năm nay, nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc là 62 tỷ USD, tăng 16,1%
dẫn đến nhập siêu từ Trung Quốc lên tới trên 29 tỷ USD, cao hơn cả năm 2018.
Về
mặt thuận, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ tăng cao. Xuất khẩu 10 tháng
vào Mỹ đạt 49,9 tỷ USD, tăng 26,6% so với cùng kỳ và xuất siêu vào Mỹ 10 tháng
là 37,9 tỷ USD. Đây là con số gây sự chú ý cho Bộ Thương mại Mỹ.
Cũng
chịu tác động từ chiến tranh thương mại, thay đổi chuỗi sản xuất, dòng vốn FDI
có những điều chỉnh. Nguồn vốn FDI vào Việt Nam liên tiếp gia tăng trong 4 năm
qua, từ 2016 đến tháng 10/2019 giải ngân được 68,6 tỷ USD, đóng góp 23% trong
tổng vốn đầu tư xã hội và 20% GDP. Tuy nhiên, theo đại biểu Trần Hoàng Ngân,
những kết quả mang lại từ FDI là chưa chọn vẹn.
Mặc
dù trong những năm qua, việc chúng ta duy trì được xuất siêu đã góp phần cải
thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối.
Tuy nhiên, điều cần lưu ý là trong tổng kim ngạch xuất khẩu thì có đến 70% là
từ khối doanh nghiệp FDI.
“Trong
thời gian tới, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương khi cấp phép đầu tư cần ưu
tiên các yếu tố an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường, công nghệ là những tiêu
chí hàng đầu theo đúng định hướng Nghị quyết của Bộ Chính trị”, ông Ngân nói.
Vốn
vẫn là một động lực tăng trưởng
Đề
cập đến vấn đề phát triển, theo đại biểu Trần Hoàng Ngân: “Trong các yếu tố đầu
vào của tăng trưởng kinh tế như lao động, vốn, TFP… thì yếu tố vốn vẫn quyết
định đến 45 - 50% GDP. Vốn đến từ đâu? Một trong những nguồn vốn quan trọng là
nguồn vốn tín dụng”.
Trong
khoảng 5 năm qua, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và quyết tâm của
Chính phủ, chúng ta giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát dưới 4%,
kéo giảm bội chi, nợ công, xử lý nợ xấu, đảm bảo an ninh tài chính tiền tệ quốc
gia và an toàn hệ thống ngân hàng.
“Vì
lẽ đó, người dân vẫn tin tưởng và gửi tiền vào hệ thống. Cho đến tháng 7/2019,
hệ thống ngân hàng huy động nguồn vốn đạt trên 8,2 triệu tỷ đồng, trong đó 4,7
triệu tỷ là đến từ tiền gửi của người dân. Và nhờ vậy, hệ thống ngân hàng có
nguồn vốn ổn định để cung ứng cho nền kinh tế”, đại biểu cho biết.
Do
đó theo đại biểu Trần Hoàng Ngân, thời gian tới cần tiếp tục ưu tiên mục tiêu
ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Cần tiếp tục tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng,
tránh để nợ xấu quay trở lại.
Bên
cạnh đó, cần tiếp tục tái cơ cấu thị trường tài chính để thị trường tài chính
chứng khoán trở thành kênh cung ứng vốn trung dài hạn quan trọng cho nền kinh
tế. Ông cũng đề nghị Chính phủ hỗ trợ để TP. Hồ Chí Minh xây dựng thành công
trung tâm tài chính của khu vực và quốc tế.
Đánh
giá cao về điều hành chính sách tiền tệ, đại biểu Nguyễn Văn Thân - Thái Bình
cho rằng, dòng tiền rất quan trọng, nó như mạch máu trong cơ thể, vừa rồi ngành
Ngân hàng đã làm rất tốt nên ổn định được giá và cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và
vừa được hưởng lợi rất nhiều.
Cần
củng cố và phát huy nội lực
Đại
biểu Nguyễn Như So (Bắc Ninh) đưa ra con số lạc quan trong 9 tháng đầu năm, vốn
đầu tư của khu vực ngoài nhà nước đã đạt 624,6 nghìn tỷ đồng, tăng 16,9% so với
cùng kỳ năm 2018, cao nhất trong các khu vực kinh tế. Sự chuyển dịch về cơ cấu
này thể hiện kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng đóng góp
trên 40% GDP tạo ra 1,2 triệu việc làm mỗi năm.
Tuy
nhiên khu vực tư nhân vẫn phát triển dưới tiềm năng, chưa bứt phá được trụ cột
mới của nền kinh tế. Vì vậy Chính phủ cần phải có sự đột phá về cơ chế, chính
sách nhằm xóa bỏ rào cản phát triển DN tư nhân. Đây là điều kiện tiên quyết để
người dân an tâm, hồ hởi, bỏ tiền ra làm ăn, gia tăng hiệu quả cho nền kinh tế.
“Cần
phải đặt DN tư nhân là động lực lớn, lan tỏa, lôi kéo các thành phần kinh tế
khác, nhất là hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông
thôn, hình thành trục liên kết theo chuỗi, hỗ trợ tính thị trường đối với những
người dẫn dắt thị trường đó, tạo ra sân chơi cạnh tranh thì mới có hiệu quả…”,
ông So đề nghị.
Cũng
liên quan đến nội dung này, đại biểu Vũ Tiến Lộc cho biết, mặc dù đã đóng góp
tới 40% GDP, nhưng khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam đang mang trong lòng một
nghịch lý lớn: chỉ có trên 700 nghìn DN thuộc khu vực DN tư nhân nhưng đóng góp
chỉ vẻn vẹn 10% cho GDP, còn lại hơn 30% GDP là thuộc về trên 5 triệu hộ kinh
doanh đang hoạt động, trong đó có 2 triệu hộ kinh doanh có đăng ký.
Theo
ông Lộc, không có một nền kinh tế thị trường nào có khu vực bán chính thức và
phi chính thức lớn đến như vậy. Về bản chất thì hộ kinh doanh cá thể chính là
một loại hình DN nhỏ và siêu nhỏ nhưng do chưa được định danh rõ ràng về mặt
pháp lý, nên với bên ngoài, hộ kinh doanh bị hạn chế về quyền kinh doanh…
Chúng
ta không thể xóa bỏ hộ kinh doanh, không thể ép buộc hộ kinh doanh chuyển đổi
thành DN, mà chỉ có thể khoác tấm áo pháp lý mớicho hộ kinh doanh: đưa hộ kinh
doanh vào phạm vi điều chỉnh của Luật DN với những quy định pháp lý tối giản
nhưng minh bạch, bảo đảm sự bình đẳng của hộ kinh doanh với các loại hình DN
siêu nhỏ, nhỏ và vừa, để góp phần thúc đẩy sự phát triển có hiệu quả của hộ
kinh doanh trong nền kinh tế.
Đại
biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) thì cho rằng, kinh tế phát triển nhanh, ổn định
nhưng Việt Nam vẫn là quốc gia có thu nhập trung bình thấp, chưa thể "hóa
rồng hóa hổ". Giải pháp của Chính phủ đưa ra là đầy đủ và toàn diện, nhưng
với nội lực, bối cảnh như vậy cần có mũi nhọn đột phá trọng tâm để thoát khỏi
nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
“Có
ba vấn đề cốt lõi cần dành nguồn lực thực hiện bằng được để tăng trưởng theo
chiều sâu. Đó là trình độ lao động; phát triển ứng dụng khoa học, công nghệ và
khởi nghiệp sáng tạo. Chỉ có nâng cao trình độ lao động và đẩy mạnh ứng dụng
khoa học mới có thể tăng trưởng theo chiều sâu. Nhưng để làm được cần đổi mới
mạnh mẽ, gắn giáo dục đào tạo với yêu cầu của thực tiễn và nhu cầu của DN. Có
giải pháp thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, chỉ có đổi mới sáng tạo mới
tạo ra giá trị gia tăng đột phá và có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị
toàn cầu. Muốn vậy cần phải có kênh nguồn vốn chính sách cho khởi nghiệp sáng
tạo và phải chấp nhận rủi ro”, ông Hàm cho hay.
NN
Comments
Post a Comment