Hội thảo khoa học giới thiệu, kết quả nghiên cứu đề tài “Cơ chế truyền tải CSTT giai đoạn 2006 – 2016: Cơ sở thiết lập Khung khổ điều hành CSTT tại Việt Nam”
16/12/2019
Ngày 16/12/2019, Viện chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) tổ chức Hội thảo Khoa học giới thiệu, trao đổi kết quả
nghiên cứu đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ “Cơ chế truyền tải CSTT giai
đoạn 2006 – 2016: Cơ sở thiết lập Khung khổ điều hành CSTT tại Việt Nam”. Tham
dự Hội thảo có đại diện một số Vụ, Cục NHNN, đại diện một số ngân hàng thương
mạị, đại diện một số đơn vị nghiên cứu.
Quang cảnh buổi Hội thảo
Phát
biểu khai mạc Hội thảo TS. Nguyễn Thị Hiền, Phó Viện trưởngViện Chiến lược Ngân
hàng (NHNN) cho biết, với từng giai đoạn bối, bối cảnh kinh tế khác nhau
CSTT đã vô cùng uyển chuyển, linh hoạt. Giai đoạn 2006 – 2010 khi hội nhập WTO,
chúng ta điều hành theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát
khi nền kinh tế mới mở cửa, ứng phó với các bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng hoảng
từ bên ngoài. Tuy nhiên đến giai đoạn 2011 – 2016, đỉnh điểm là khi mức lạm
phát năm 2011 ở mức cao 18,13%, CSTT đã thay đổi với mục tiêu tối thượng là
chặn ngang dòng xoáy lạm phát, điều chỉnh từng bước giảm lãi suất, trong bối
cảnh nợ công lớn, nguồn lực nhà nước hạn chế thì CSTT đóng vai trò chủ đạo
trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và phục hồi tăng trưởng. Sự điều hành khéo
léo, chủ động của NHNN trong việc sử dụng linh hoạt công cụ của CSTT đã khôi
phục lại được niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Trình
bày các nội dung chính của đề tài nghiên cứu,TS.Phạm Chí
Quang – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ chủ
nhiệm đề tài cho biết, cách tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tạo
lập cơ sở khoa học, từ các bằng chứng nghiên cứu thực chứng về từng kênh truyền
tải CSTT trong giai đoạn 2006 – 2016 để kiến nghị, đề xuất xây dựng khung khổ
điều hành CSTT bám sát thông lệ quốc tế, có khả năng áp dụng cao tại Việt Nam.
Đánh giá hiệu lực và hiệu quả các kênh truyền tải, công cụ CSTT đối với các chỉ
số kinh tế vĩ mô tại Việt Nam.
Về
phương pháp nghiên cứu Chủ nhiệm Đề tài, TS. Phạm Chí
Quang cho biết, cơ chế liên thông lãi suất chính
sách với lãi suất thương mại; mô hình VAR giản lược với các biến nội sinh; mô
hình hiệu chỉnh sai số ECM; mô hình VARX bao gồm các biến ngoại sinh; kỹ thuật
giải lập hồi quy Bootstrapping.
TS.
Phạm Chí Quang cho biết thêm, các kết luận khẳng định vai
trò kênh truyền dẫn CSTT; tuy nhiên, cần xem xét tác động đồng thời của các
kênh truyền dẫn và các biến ngoại sinh hơn là từng kênh riêng lẻ. CSTT không
tác động nhiều với tăng trưởng mà chỉ tới lạm phát, theo đó, tỷ giá đóng vai
trò quan trọng hơn so với các kênh tín dụng, cung tiền, lãi suất. “Điều hành
CSTT chịu tác động lớn từ cú sốc bên trong và bên ngoài nền kinh tế, dựa trên
các công cụ phi truyền thống và theo khối lượng là chính (Tín dụng, M1) hơn là
công cụ về giá (lãi suất, tỷ giá). Cần tiếp tục vi chỉnh các mô hình hiện hành
để nâng cao chất lượng phân tích dự báo”, TS. Phạm Chí Quang nói.
TS. Phạm Chí Quang chủ nhiệm đề tài trình bày
các nội dung nghiên cứu
Phát
biểu tại Hội thảo Bà Nguyễn Thị Hiền cho biết thêm,
thực tiễn điều hành CSTT giai đoạn vừa qua cho thấy việc hiểu được bản chất cơ
chế truyền tải CSTT đặc biệt là độ trễ và tốc độ của CSTT đến các chỉ số kinh
tế vĩ mô (lạm phát, tăng trưởng, sản lượng công nghiệp, kim ngạch xuất nhập
khẩu, chỉ số giá chứng khoán…) là chìa khóa để nâng cao hiệu lực thực thi CSTT
tại Việt Nam. Đồng thời hiểu được cơ chế truyền tải sẽ giúp chúng ta hiểu được
tác động mà công cụ CSTT sẽ tác động tới nền kinh tế, biết được thời gian, đỗ
trễ, cách thức mà công cụ CSTT sẽ tác động tới nền kinh tế như thế nào. Một
trong những đóng góp quan trọng của Đề tài là đã cung cấp các bằng chứng nghiên
cứu thực chứng về hiệu quả, hiệu lực thực thi CSTT qua Cơ chế truyền tải CSTT
tại Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2016, từ đó gợi mở việc thiết lập khung khổ
điều hành CSTT trong giai đoạn tiếp theo.
Để góp phần định
hình quan điểm điều hành CSTT của NHNN trong tương lai, Đề tài đã đưa ra các
bằng chứng để trả lời cho vấn đề, câu hỏi rất cấp thiết được đặt ra hiện nay,
đó là: Trong điều hành CSTT tại Việt Nam với thực tiễn hiện nay của hệ thống
ngân hàng và đặc thù chung của nền kinh tế, điều hành qua tổng cung tiền( Tín
dụng, M1, M2) có hiệu lực thực thi cao. Đặc biệt trong bối cảnh NHNN đang
nghiên cứu xem xét chuyển dần điều hành CSTT theo thông lệ quốc tế được hầu hết
NHTW trên thế giới triển khai – điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu (inflation
targeting).
NQ
Comments
Post a Comment